
Tình Yêu Giáng Sinh (Lễ Đêm)
Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong đêm mừng Con Chúa giáng sinh, chúng ta suy niệm về tình yêu Thiên Chúa biểu lộ qua mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể làm người và ở giữa chúng ta.
Triết gia người Đan Mạch Soren Kierkegaard kể câu chuyện tình như sau:
“Có một vị vua trong một chuyến vi hành, bỗng dưng đem lòng yêu thương một cô thôn nữ nghèo. Ông nghĩ rằng mình có thể dùng quyền vua để cưới cô ấy làm vợ. Nhưng ông lại sợ rằng cô lấy ông chỉ vì nể phục chứ không phải vì yêu. Như thế, hôn nhân của hai người không được trọn vẹn. Nhưng làm sao để cô ấy có thể yêu mình, bởi vì khoảng cách giữa vua và cô thôn nữ là quá lớn, tập tục hoàng gia lại không cho phép vì không “môn đăng hộ đối.” Sau một thời gian suy nghĩ, ông quyết định rời bỏ ngai vàng và vương quyền, trở thành một người nông dân nghèo, sống một cuộc sống bình dị, để tìm cách gần gũi và bày tỏ tình yêu với cô. Ông biết rằng, khi làm như thế, ông cũng có thể bị cô từ chối, nhưng ông vẫn làm, vì ông quá yêu cô và muốn xây dựng một cuộc hôn nhân thực sự dựa trên tình yêu và tự do đến với nhau. Cuối cùng, ông đã thành công, cô đã nhận lời cầu hôn lấy ông làm chồng. Và họ đã cưới nhau, rồi vua đưa cô ấy về hoàng cung để sống với mình.”
Câu chuyện tình rất cảm động trên đây giúp chúng ta hiểu biến cố Con Thiên Chúa nhập thể làm người mà chúng ta đang cử hành đêm nay.
Quả thế, biến cố nhập thể là biến cố mà Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người với loài người một cách tuyệt hảo nhất. Thiên Chúa yêu thương loài người và Người bày tỏ tình yêu đó qua nhiều cách thế khác nhau: Cách thức đầu tiên đó là Thiên Chúa tạo dựng nên con người và chia sẻ vinh quang và hạnh phúc của mình với con người qua công trình tạo thành (St 1,1-10tt).
Thứ đến, sau khi con người sa ngã vì nguyên tổ Ađam và Evà đã phạm tội chống lại Thiên Chúa và vâng theo ma quỷ cám dỗ, nhưng Thiên Chúa vẫn không từ bỏ con người. Người tiếp tục yêu thương và chuẩn bị cứu độ họ bằng các giao ước qua các tổ phụ và các ngôn sứ trong Cựu Ước.
Đến thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con Một của Người, xuống thế, nhập thể, làm người và ở giữa chúng ta. Biến cố này được thánh Luca trình thuật trong bài Tin Mừng hôm nay mà chúng ta vừa nghe. Khi thánh Giuse đưa Đức Maria từ Nadarét lên thành vua Đavít, miền Giuđêa, để khai hộ khẩu, thì Đức Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai khoa. Khi hai người đang ở Bêlem, Đức Maria sinh Chúa Giêsu tại một chuồng bò, và đặt Hài Nhi nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trọ (x. Lc 2,1-14).
Với biến cố này, lời tiên báo của Isaia trong bài đọc I đã được ứng nghiệm:
“Dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ,
đã tăng thêm nỗi vui mừng…
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta,
một người con đã được ban tặng cho ta…
Vì yêu thương nồng nhiệt,
Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9,1-6).
Thánh Gioan khi chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa đã thốt lên rằng:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Giống như vị vua đang ở chốn cung điện cao sang, nhưng vì yêu thương cô thôn nữ, nên ông đã từ bỏ mọi sự, sống một cuộc sống đơn hèn để có thể yêu và cưới cô, cũng thế, Con Thiên Chúa vì yêu loài người và muốn cứu độ loài người, đã từ bỏ địa vị, vinh quang và uy quyền Thiên Chúa, trở nên một người phàm, sống một kiếp sống nghèo hèn, từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời: Người sinh ra ở ngoài đồng, sống bên đường và chết trên đồi. Tất cả vì yêu thương và để cứu độ chúng ta. Ôi tình yêu Chúa thật là lớn lao!
Khi suy ngắm về tình yêu Thiên Chúa trong mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta phải làm gì để đáp lại tình yêu đó?
Trong bài đọc II, thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta:
“Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này… Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta trở thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2,11-14).
Mỗi độ Giáng Sinh về là thời gian để chúng ta hoán cải đời sống mình, bằng cách từ bỏ nếp sống cũ, nếp sống tội lỗi và sống một cuộc sống mới theo mẫu gương của Chúa Kitô, Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó vì yêu chúng ta và muốn cứu độ chúng ta.
Vì thế, Giáng Sinh là dịp đặc biệt để chúng ta nhớ đến những người nghèo, những người đau khổ và cô thế cô thân. Chúng ta cùng nhau mang niềm vui Giáng Sinh đến cho họ bằng sự viếng thăm, an ủi và giúp đỡ. Vì họ là hiện thân của Chúa Giêsu.
Giáng Sinh cũng là cơ hội để bày tỏ, chia sẻ niềm vui và tình thương mến với nhau. Đó là cách thức để chia sẻ món quà mà Hài Nhi Giêsu mang đến cho chúng ta đêm nay. Chúng ta hãy nhớ tới những người thân yêu trong gia đình, và hãy chúc nhau những điều tốt đẹp nhất.
Mừng đại lễ Con Chúa làm người, tôi trân trọng cầu chúc tất cả anh chị em một Mùa Giáng Sinh an lành, thánh đức và tràn đầy phúc lộc của Thiên Chúa. Amen!
Hài Nhi Giêsu Là Ai? (Lễ Ban Ngày)
Is 52,7-10; Hr 1,1-6; Ga 1,1-18
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong ngày mừng đại lễ Sinh Nhật Chúa Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu câu trả lời cho câu hỏi: “Hài Nhi Giêsu là ai?”
Bài Tin Mừng trong đại lễ Giáng Sinh được trích từ Lời Tựa của Tin Mừng Gioan. So với phụng vụ Lời Chúa của thánh lễ đêm và lễ rạng đông, chúng ta thấy sự khác biệt rõ rệt từ bài Tin Mừng của ngày lễ này. Trong khi các bài Tin Mừng của các thánh lễ trước tường thuật về biến cố Chúa Giêsu giáng sinh xảy ra như thế nào, thì ở đây, trong Tin Mừng Gioan, chúng ta được tiếp cận một suy tư sâu sắc về ý nghĩa của biến cố giáng sinh này. Vì thế, trong Tin Mừng Gioan, chúng ta không tìm thấy một tường thuật nào về việc Chúa giáng sinh, nhưng Gioan cung cấp cho chúng ta một cái nhìn chiêm niệm sâu sắc về biến cố nhập thể của Con Thiên Chúa, để từ bản văn này giúp chúng ta trả lời cho câu hỏi như là trọng tâm của ngày Lễ Giáng Sinh: Chúa Giêsu là ai? Hài Nhi vừa mới sinh là ai? Và tại sao chúng ta phải cử hành sinh nhật Người?
Chúng ta tìm thấy câu trả lời rất rõ ràng ngay tại những dòng đầu tiên của Tin Mừng Gioan: Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, là Ngôi Lời (Logos) hằng hữu. Người hiện hữu với Thiên Chúa trước khi tạo thành thế giới. Người ở với Thiên Chúa và Người chính là Thiên Chúa. Đó là câu trả lời về nguồn gốc tiền hữu của Hài Nhi Giêsu.
Điều này đòi hỏi chúng ta có cặp mắt đức tin để có thể nhìn thấy trong Hài Nhi nhỏ bé này chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời hằng hữu, Người hiện hữu từ trước khi tạo thành thế giới.
Trong bài đọc II, tác giả thư Hípri quả quyết: Người chính là Lời của Thiên Chúa, Đấng đã hoạt động trong tiến trình sáng tạo. Nhờ Người mọi sự được tạo thành. Chúa Cha đã tạo dựng mọi sự và mọi loài nhờ Ngôi Lời. Ngôi Lời cũng chia sẻ vinh quang, vinh dự và quyền năng với Chúa Cha. Người là ánh sáng cho muôn dân. Người là ánh sáng bởi ánh sáng (x. Hr 1,1-6). Đó là điều chúng ta tin và tuyên xưng trong Kinh Tin Kính Nicêa:
“Người là ánh sáng bởi ánh sáng,
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật,
được sinh ra mà không phải được tạo thành,
đồng bản thể với Đức Chúa Cha.”
Nguồn gốc của Chúa Giêsu được nói ở đây bắt nguồn từ Lời Tựa của Tin Mừng Gioan. Như thế, câu hỏi Chúa Giêsu là ai được thánh Gioan và tác giả thư Hípri trả lời cho chúng ta hôm nay: Người là Ngôi Lời Thiên Chúa; Người là ánh sáng của Chúa Cha; Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng mà duy trì vạn vật. Nhờ Người, chúng ta hiện hữu, sống và tồn tại. Nếu không có Người, không có gì được tạo dựng; Người chính là Lời sáng tạo của Chúa Cha.
Một phần mầu nhiệm Con Thiên Chúa mà chúng ta đang cử hành là Ngôi Lời hằng hữu này, Đấng mà nhờ Người chúng ta hiện hữu và sống động, Ngôi Lời đó được sai đến, làm người và ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy hình dung: Đấng Tạo Hóa nay đã trở thành một thụ tạo, chia sẻ mọi hoàn cảnh thụ tạo mà Người đã tạo dựng! Thật khó tin quá! Chúng ta hãy dành nhiều thời gian trong ngày này để suy nghĩ về điều đó. Hình ảnh của Đấng Sáng Tạo quyền năng nay trở thành một em bé, nghèo hèn, đơn sơ, nhỏ bé, như chúng ta. Đấng mà nếu không có Người, chúng ta không hiện hữu được, nay lại trở thành một thụ tạo mỏng giòn như chúng ta; Đấng Sáng Tạo ra khỏi tình yêu, tự do để vâng lời Chúa Cha đã xuống thế, cắm lều ở giữa chúng ta. Người thực sự trở thành một người như chúng ta. Người vui với niềm vui chúng ta. Người buồn với nỗi buồn chúng ta. Người cũng chịu đói khát, bị cám dỗ như chúng ta; Người cũng trải qua mọi kinh nghiệm thường nhật của kiếp người, ngoại trừ tội lỗi. Người thực sự “cắm lều” ở giữa chúng ta. Người thực sự đã hội nhập, sống chết với điều kiện con người. Ôi, đây thật là một vinh dự lớn lao! Thật hạnh phúc vì chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa và Thiên Chúa thuộc về chúng ta.
Chúng ta hãy hình dung, nếu có một ai đó cao trọng đến viếng thăm gia đình chúng ta, chẳng hạn như Đức Giám mục viếng thăm một gia đình giáo dân nghèo, chúng ta thường nghe họ nói: Lạy Chúa tôi, nhà con không đáng để Đức Cha đến viếng thăm! Chúng con bất xứng để được Đức Cha viếng thăm…” Đây cũng là âm hưởng của lời mà viên đại đội trưởng trong Tin Mừng khi ông gặp Chúa Giêsu và chúng ta tuyên xưng trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.” Đó là cách thức Thiên Chúa đến với chúng ta, khi Người trở thành một người bé mọn, để chúng ta có thể tới gần Người và yêu mến Người. Người trút bỏ mọi thứ vinh quang, địa vị của Thiên Chúa, để trở thành một người như chúng ta; Người quả thật là Thiên Chúa ở với loài người. Nhờ đó, chúng ta có thể đến gần, đụng chạm Người và yêu mến Người.
Nhưng có một thực tế thật đáng buồn vì con người đã và đang khước từ Con Thiên Chúa. Sự hiện diện của Ngôi Lời trong cách thức nhân loại đòi hỏi chúng ta có sự đáp trả, nhưng thay vì đáp trả, nhiều người đã khước từ Người. Đoạn Tin Mừng hôm nay đã không giấu giếm thực tại đáng buồn này:
“Người đến với gia nhân của mình. Nhưng gia nhân Người không tiếp nhận Người” (Ga 1,11).
Chúa Giêsu có thể bị từ chối bởi chúng ta. Con người không nhìn thấy nơi Người ánh sáng Thiên Chúa, ánh rạng ngời Chúa Cha, họ không nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa nơi Người. Nên họ không thấy và không đón nhận Người. Sự thật này có thể vẫn còn xảy ra hôm nay, cả trong ngày lễ Giáng Sinh: Chúng ta đón nhận điều gì? Chúng ta đón nhận quà tặng, thích nhận phần thưởng và lời mời đi dự tiệc… Chúng ta đón nhận rất nhiều món quà Giáng Sinh, cả những ân sủng và phúc lành nữa, nhưng có thể chúng ta không đón nhận chính Chúa Giêsu, là nhân vật chính của ngày lễ, là ánh sáng của Chúa Cha.
Thật là một niềm vui lớn lao khi biết rằng Chúa Giêsu đến với chúng ta vì một mục đích như Tin Mừng Gioan nói: Người đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta để Người cho chúng ta quyền trở nên con Thiên Chúa (x. Ga 1,12). Người đến để chia sẻ với chúng ta quyền làm con của Người. Người đến để dẫn đưa chúng ta về với Chúa Cha, vì Người là đường dẫn tới Thiên Chúa. Người đến để thần hóa chúng ta và làm cho chúng ta nên giống Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh không phải là dịp để chúng ta nhận nhiều quà cáp; cũng không phải là ngày lễ hội để chúng ta vui chơi, ăn uống linh đình v.v… Nhưng là ngày để đón nhận ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Hài Nhi Giêsu. Ngôi Lời làm người để làm cho chúng ta được trở thành con Thiên Chúa. Đây chính là hồng ân lớn nhất mà Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta. Chúng ta hãy biết hồng ân này khi đến chiêm ngắm và thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi hang đá. Người là Ngôi Lời hằng hữu, là Thiên Chúa, nay làm người để cứu độ chúng ta.
Kính chúc anh chị em một Mùa Giáng Sinh an lành, thánh đức và tràn đầy ân lộc của Chúa Hài Đồng Giêsu. Amen!
Đấng Cứu Thế Được Hạ Sinh (Lễ Đêm)
(Is 9,1-6; Tv 95; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14)
Lm. Petrus Lửa Hồng
Chúng ta nô nức chuẩn bị cho Lễ Giáng sinh, gửi những lời cầu chúc an lành, hoan ca giáng sinh, viếng hang đá… Chúng ta nhận ra điều gì căn bản trong những dịch chuyển của biến cố này? “Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Giữa cái náo động của thành Bethlehem hôm xưa hay sự sôi động của không khí Giáng sinh thời công nghệ, chúng ta dễ đánh mất cơ hội nhận ra và đón nhận biến cố quan trọng mang tính sống còn của toàn thể nhân loại. Các bài đọc Lời Chúa của Thánh Lễ đêm Giáng sinh lúc này mời gọi chúng ta “nín đi mà cung kính” biến cố độc nhất vô nhị: Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta.
- “Một người con được ban tặng cho ta”
Isaia đệ nhất trong bài đọc một loan báo về triệu đại của “Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mạnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình”, Người sẽ đem lại sự thịnh vượng, tự do cho “dân đang lần bước trong bóng tối” của kiếp lầm than, khỏi ách nô lệ vì được ánh sáng bừng lên rọi chiếu và niềm vui chan chứa hỷ hoa được Chúa ban tặng như thiên hạ mừng vui trong ngày thu hoạch, như chia được chiến lợi phẩm. Đó là niềm vui ơn giải thoát, niềm vui về sự xuất hiện của vị minh quân: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (c.5).
Trích đoạn này thường được coi là bài ca đăng quang hoặc tạ ơn: ơn giải thoát được ban xuống trong thời của Emmanule (Is 7,14). “Trẻ thơ đã chào đời”, “được sinh ra” có thể hiểu theo Thánh vịnh 2,7 về chính việc phong vương: choàng cẩm bào và đặt danh hiệu. Việc này gợi lại sự khôn ngoan của Salomon, sự dũng cảm và lòng đạo của David.
Phụng vụ lễ Giáng sinh áp dụng dự kiện này cho Chúa Giêsu – “Chúa dũng mạnh”, “Thái Tử hòa bình”, “Mặt Trời công chính”, “Vầng Hồng chốn trời cao”. Người là Vua đích thực, đem lại thời thịnh vương nơi công lý hòa bình được thực hiện, tín nghĩa ân tình quyện lấy nhau. Sự xuất hiện của Đức Giêsu, Người con được cưu mang và hạ sinh bởi Nữ Trinh, là “Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng nhân loại” (x. Is 7,14; Mt 1,23). Chính Người là thực tại mà lời tiên báo xưa được ứng nghiệm, là Ánh sáng rọi chiếu cho đoàn dân đang tiến bước trong tối tăm của cuộc nhân sinh tìm thấy ánh sáng cho hiện hữu và cùng đích của mình. Ánh sáng của Vầng Hồng từ trời cao rọi chiếu dương thế để những ai đang lần mò trong tăm tối của thế sự, của ác thần, tìm được lối về, nhờ ánh sáng sọi đường của Sao Mai đích thực là Đức Kitô: “Ngôi Lời là Ánh sáng thật, chiếu soi trong bóng tối. Ánh sáng đã đến thế gian và chiếu soi mọi người” (x. Ga 1,5.9; 8,12).
- “Một trẻ sơ sinh, bọc tã, đặt nằm trong máng cỏ”
Isaia loan báo về việc hạ sinh của Quân vương và thời an thịnh: “Một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta. Một người con đã được ban tặng cho ta” (Is 9,5) như chúng ta trình bày ở trên. Tuy nhiên, thực tại mà lời tiên báo đó trái ngược với viễn tưởng được tuyên sấm: không phải sự oai phong của ngày đăng quang với những xa giá, tùy tùng, mà là những mục đồng, cha mẹ nhà quê, không nơi nương ẩn, một sự xuất hiện đơn hèn, khiêm tốn như Thánh Luca giới thiệu: “Một Trẻ Sơ sinh bọc tã, đặt nằm trong máng cỏ” (Lc 2,12). Vậy đó, Thiên Chúa đến với chúng ta không phải nơi lầu son gác tía, cũng không phải chốn cung điện hoàng gia mà trong một gia đình nghèo, trong một cảnh huống bi thương, “vì cha mẹ Người không tìm được nơi trọ”, phải mướn chuông chiên, chuồng bò làm nhà, máng cỏ làm giường. Cố Vấn kỳ diệu, Hoàng Tử thái bình hạ sinh trong cảnh đơn nghèo, bị khước từ, chịu sự chối bỏ của con người: Đấng là nguyên ủy của mọi tạo thành lại không tìm được nơi để sinh ra; Đấng vốn là sung mãn, giàu sang lại chịu cảnh túng thiếu; Đấng đáng mọi loại tôn kính, đón nhận lại bị khước từ.
Thiên Chúa trở nên “trẻ sơ sinh, bọc tã, đặt nằm trong máng cỏ”. Tã lót là đồ mặc khiêm tốn và yếu hèn. Tã lót cho thấy có một sự thiếu thốn cần che chở, một sự xấu hổ cần bao bọc. Đấng thánh thiện, vô tì tích và dũng mạnh đã vui nhận tã lót vì chúng ta. Dĩ nhiên tã lót, thì con vua hay con dân đều dùng tới, nhưng có sự khác biệt rõ ràng trong nôi. Chúa chọn tã lót của người nghèo, nôi – máng cỏ. Người đồng số phận với người nghèo. Người sinh ra trong nơi phế thải, bị đẩy ra lề cuộc sống như đồ phế thải, và chóp đỉnh của việc bị loại trừ, của mầu nhiệm Nhập thể, của việc tự hủy chính là Thập giá.
“Được đặt nằm trong máng cỏ”. Chúng ta thấy gì qua máng cỏ? Thiên Chúa tự chọn máng cỏ nghèo thay vì “nhà cao, cửa rộng, giường nệm êm ấm”, thay vì bên bếp sưởi, thì Người chọn hơi thở bò lừa. Người ở trong máng cỏ để ban mình làm của ăn cho chúng ta. Bethlehem nghĩa là “Nhà của bánh”. Các giáo phụ, nhất là thánh Augustinô nói việc nhìn thấy máng cỏ đó, làm chúng ta nhớ tới việc Chúa Giêsu loan báo “Ta là bánh hằng sống” (Ga 6,48). Chúa Giêsu máng cỏ, tượng trưng cho Chúa Giêsu Thánh Thể, một Thiên Chúa ẩn mình, một Thiên Chúa tự hủy để nên tất cả cho chúng ta, để chúng ta “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Con Thiên Chúa đến trong cảnh khó nghèo ấy “để nên giống anh em mình mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi.” Khi suy chiêm về sự khiêm tốn của Thiên Chúa làm người, Thánh Phaolô đã viết: “Anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2Cr 8,9), để chúng ta được giải phóng khỏi ách tử thần, để trở nên con Thiên Chúa. “Thiên Chúa làm người để con người được làm con Chúa” (Thánh Anthanasio).
- “Đấng cứu thế đã giáng sinh cho anh em”
Đức Giêsu đã khởi sự hành trình trần thế trong một máng cỏ, con đường đơn sơ của người nghèo. Tuy nhiên, ngược với tình cảnh đó là ánh sáng và lời loan báo của thiên thần Chúa. Lời loan báo này là sứ điệp của niềm vui, sứ điệp nói lên phẩm hạnh của trẻ sơ sinh tầm thường bên vệ đường Bethlehem hôm ấy:
“Một trẻ sơ sinh, bọc tã, đặt nằm trong máng cỏ” ấy là “Tin mừng trọng đại, niềm vui cho toàn dân” (Lc 2,10). “Đấng cứu thế đã giáng sinh cho anh em trong thành của vua David, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11). Những lời này của thiên thần loan cho các mục đồng quả là tin vui trọng đại. Đó là thực tại mà Isaia trong bài đọc thứ nhất muốn nói tới: Thời thái bình của Hoàng Tử hòa bình; thời hoan lạc của dân lầm than tìm được ánh sáng soi lối; thời tội nhân được ơn giải thoát; thời người nghèo được nghe Tin mừng cứu độ… Đó là Tin mừng về Đấng mà sứ thần Gabriel nói với Đức Mẹ: “Con của Đấng tối cao. Đức Chúa sẽ là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavit tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời và triệu đại của Người sẽ vô cùng vô tận” (Lc 1,32-33).
Tin mừng mà các thiên thần loan báo là tin mà toàn dân mong ngóng, đón đợi bao thế kỷ, tin mừng chứng thực lời hứa của Đức Chúa mà các ngôn sứ tuyên sấm, tin mừng làm nổi bật hình ảnh của “trẻ thơ, bọc tã, đặt nằm trong máng cỏ”. Lời đáp của các đạo binh thiên thần ngợi khen Thiên Chúa với những mục đồng đang khiếp sợ diễn tả ý nghĩa của việc chào đời đối với Thiên Chúa và đối với con người. Thiên Chúa được tôn vinh bởi cuộc chào đời này: Người đã tôn vinh chính mình. Người đã làm cho con người biết Người trong thần tính, trọn tình yêu và lòng thương xót. Biến cố Đấng cứu thế hạ sinh, đến với con người và ở giữa họ là sáng kiến của tình yêu và lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người đến nỗi trở nên con người trong chính những gì là con người. Cùng với việc Đấng cứu thế hạ sinh, nhân loại được ban cho hòa bình và ơn cứu độ trọn vẹn. Nền hòa bình được đặt nền tảng trên sự hài lòng của Thiên Chúa, trên sự hạ cố nhân ái của Người.
Lạy Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể. Tạ ơn Chúa đã đến để đem niềm vui cho chúng con. Xin cho chúng con biết đến thờ lạy Chúa, nhờ việc lắng nghe lời mời gọi của Chúa qua Giáo Hội, để cùng với Mẹ Maria, Thánh Giuse, các thiên thần và các mục đồng thờ lạy Chúa và động thanh hát lên: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
——–
“Quyền làm con Chúa” (Lễ Ban Ngày)
(Is 52,7-10; Tv 97; Dt 1,1-6; Ga 1,1-18)
Lm. Petrus Lửa Hồng
Nhập thể của Ngôi Lời, biến cố độc nhất vô nhị là yếu tố đặc trưng của đức tin Kitô giáo, duy chỉ trong mầu nhiệm đức tin vào quyền năng Thiên Chúa mà khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa xuất hiện nơi hài nhi Giêsu. Tuy nhiên, Giáng sinh là biến cố của mọi người xét trên cả bình diện tôn giáo và xã hội. Quả thực, Thiên Chúa giáng sinh cho mọi người, mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho toàn thể vũ hoàn. Dẫu Giáng sinh đã trở thành niềm vui chung của gia đình nhân loại, biến cố đánh dấu ý nghĩa sống còn của từng người, nhưng nhân loại vẫn thờ ơ, lãnh đạm trước lời mời gọi và sự hiện hiện diện của Thiên Chúa, dù rằng ai ai cũng đón giáng sinh Ân phúc thuộc về những ai khiêm hạ, mở lòng ra với ánh sáng và được ánh sáng chiếu tỏa, họ trở nên con cái Thiên Chúa.
- “Ngôi Lời, Ánh sáng đã tới nhà mình…”
Lời Chúa lễ Giáng sinh hôm nay hướng chúng ta tập trung vào Ngôi Lời thành nhân, Ánh sáng khải thị cho con người và toàn thế giới. Quả thực, Ngôi Lời là Thiên Chúa, là nguyên ủy của mọi thành thành, là Ánh sáng thật từ Ánh sáng soi chiếu nhân gian như Thánh Gioan chứng thực: “Ngôi Lời là sự sống và ánh sáng nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối không diệt được ánh sáng. Ngôi lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,1,3.5.9).
Chúng ta hiểu tại sao Giáng sinh, người ta trang trí nhiều ngôi sao và ánh sáng được thắp lên, được trang trí làm cho đêm đen sáng tỏ như ban ngày. Thứ làm cho đêm linh thánh này rực sáng không phải bởi ánh điện hay những ngọn lửa mà là Vầng Hồng từ trời cao, viếng thăm, tỏa rạng, soi những ai ngồi trong bóng tối tử thần và dẫn họ tìm về nẻo an bình (x. Lc 1,78-79). Thiên Chúa làm người là sự khai sáng, khải thị cho toàn bộ hiện hữu của con người và toàn thể vũ trụ. Công đồng Vaticanô dạy: “Mầu nhiệm con người chỉ được biểu lộ một cách trọn vẹn trong mầu nhiệm Ngôi Lời làm người” (GS 22). Đúng là “nhờ ánh sáng của Ngài, lạy Chúa, chúng con được nhìn thấy ánh sáng” (Tv 36,10).
Có thể nói, toàn bộ lịch sử nhân loại, toàn thể tạo thành chỉ thực sự tìm được ánh sáng cho ý nghĩa hiện hữu trong biến cố nền tảng này. Nhờ Người mà “muôn vật được tạo thành” và đạt tới “sự viên mãn” trong kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa (x. Cl 1,15-20). Đó là niềm an ủi, niềm hy vọng, niềm vui sung mãn của nhân loại và toàn thể thọ sinh. Niềm hoan hỷ mà Isaia trong bài đọc thứ nhất loan truyền, “tin bình an”, “ơn cứu độ” cho Sion và toàn dân vì “Thiên Chúa– Emmanuel ở với dân Người. “Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ, nhưng chính Con Một, vốn là Thiên Chúa, hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,14.18). Đó là niềm vui trọng đại, vì nhớ đó mà chúng ta nhận thấy vinh quang và “người bốn bể rồi ra nhìn thấy”, “toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”, Đấng “chiến thắng nhờ bàn tay hùng, canh tay chí thánh”, Đấng “biểu dương ơn cứu độ” và “mạc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân”. Vậy nên, chúng ta vui mừng hát mừng Chúa, vị Quân Vương bài ca mới như Thánh vịnh 97 trong bài đáp ca mời gọi. Đó là tâm tình mà chúng ta mặc lấy khi sống mầu nhiệm trung tâm của đức tin chúng ta.
- “… nhưng người nhà không chịu đón nhận”
Chúng ta nô nức đón Giáng sinh. Người người, nhà nhà, trong đạo ngoài đời vui Giáng sinh. Người ta trao quà, gửi thiệp, lời cầu chúc Giáng sinh, nhưng dường như con người, và cả chúng ta những kitô không tập trung, thậm chí bỏ qua, loại trừ thực tại chính yếu, trung tâm của Giáng sinh – Thiên Chúa làm người. Thái độ này thật trái ngược với những gì chúng ta nói trên. Thánh Gioan nói lên thực trạng với hai dạng thức từ khước:
Những người vì vô minh mà không nhận ra Người: “Ngôi Lời là ánh sáng… Người ở giữa thế gian, và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người (Ga 1.9). Người ta không nhận biết Thiên Chúa vì Người ẩn mình. Người đến trong âm thầm, bé nhỏ. Người ẩn khuất trong lòng thế giới. Con người có niềm khao khát siêu việt, capax Dei, nhưng đang lần mò trong việc kiếm tìm Đấng Tối Cao. Đây là tâm thái của dân ngoại, những người chưa biết tới mạc khải siêu nhiên;
Những kẻ chủ ý khước từ: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Đây là thái độ của dân được chọn, họ là những người được mạc khải thần linh biểu tỏ “nhiều lần nhiều cách” (Dt 1,1), nhưng họ làm ngơ, bịt tai không nhận ra “giờ cứu độ”. Gioan từng nói với người Do thái: “Có một vị ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26). Chúa Giêsu cũng than vãn Giêrusalem và con dân của thành: “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi!” (Lc 19,42).
Hai thái độ này chúng ta gặp thấy nơi con người hôm nay, nơi chúng ta – những người tin: thờ ơ, lãnh đạm trước thực tại siêu việt. Chúng ta hân hoan mừng Giáng sinh, nhưng quên mất thực tại trung tâm. Chúng ta làm nhiều chương trình đón Giáng sinh với những trang trí và tiệc tùng, nhưng lại không mấy quan tâm tới người nghèo, người bị bỏ rơi. Thậm chí, con người hôm nay chủ trương một thế giới không có Thiên Chúa, có Giáng sinh mà không nói tới việc Nhập thể của Ngôi Lời. Còn thái độ khác, cũng mừng Giáng sinh, nhưng không biết ý nghĩa đích thực của biến cố này. Thái độ của những người mà Tin mừng trọng đại chưa được loan báo, chưa được nghe tới. Nói về những thái độ này, Đức Phanxicô nói:
Trong thời đại này, đặc biệt là ở Châu Âu, chúng ta đang chứng kiến một kiểu “bóp méo” lễ Giáng Sinh: nhân danh một sự tôn trọng sai lầm không phải là Kitô giáo, thường che giấu ước muốn loại trừ đức tin, bất kỳ sự đề cập nào đến sự ra đời của Chúa Giêsu đều bị coi là sai lầm. Giáng sinh thực sự là biến cố duy nhất, làm nên ý nghĩa của của biến cố này! Không có Chúa Giêsu thì không có Lễ Giáng sinh mà là một ngày lễ khác, nhưng không phải Giáng sinh. Và nếu Giáng sinh là trung tâm, thì tất cả mọi thứ, mọi việc: ánh sáng, hang đá, quà tặng, chúc mừng, diễn nguyện, cả các món ăn đặc trưng… đều quy hướng và dẫn tới thực tại trung tâm: Chúa Giêsu. Nếu chúng ta loại bỏ Người, ánh sáng sẽ tắt và mọi thứ trở nên giả tạo, mất hết ý nghĩa.
Giáng sinh ngày nay rực rỡ và rực sáng hơn xưa bởi công nghệ, nhưng chúng ta cũng chứng kiến một thực tế: nhân loại thường ưa thích bóng tối hơn, bởi vì họ biết rằng ánh sáng sẽ phơi bày tất cả những hành động và suy nghĩ khiến lương tâm người ta phải đỏ mặt hoặc run rẩy. Vì vậy, người ta thích ở trong bóng tối và không thay đổi những thói xấu của mình. Chúng ta trao quà tặng, chúc mừng nhau, nhưng lại lãng quên Tặng Ân mà Thiên Chúa ban cho con người trong biến cố Giáng sinh. Quà tặngthực sự dành cho chúng ta là Chúa Giêsu, và giống như Người, được Chúa Cha sai đến là một Tặng Ân cho chúng ta, và chúng ta là những quà tặng cho người khác. Đó là ý nghĩa của việc tặng quà Giáng sinh.
Chúng ta hãy tập trung vào ý nghĩa của sự ra đời của Chúa Giêsu, mà trong những ngày này chúng ta đang sống trong đức tin và các lễ kỷ niệm. Việc xây dựng hang đá và trên hết là phụng vụ, với các bài đọc Kinh Thánh và các bài hát truyền thống, làm cho chúng ta sống lại “ngày hôm nay” trong đó “Chúa Kitô đã sinh ra cho chúng ta” (Lc 2,11).
- “Quyền là con Thiên Chúa cho những tin”
Chúng ta tìm thấy những ai nơi hang đá? Maria, Giuse, cha mẹ của Hài Nhi Giêsu, các mục đồng – những người thôn quê nghèo, “những người nhìn thấy ơn cứu độ cho muôn dân và là vinh quang của Israel” (Lc 2,30-32), những người bé mọn nhận được mạc khải của Thiên Chúa (Mt 11,25). Họ là số sót của Israel, những người nhờ đức tin đơn thành được trở nên con cái Thiên Chúa: “Còn ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh của Người, thì Người cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Giáng sinh cho chúng ta thấy lịch sử nhân loại được lịch sử của Thiên Chúa quyện vào nhau. Với những người bé mọn và những người bị khinh miệt, Chúa Giêsu thiết lập một tình bạn, ban cho họ ánh sáng, niềm hy vọng cho tương lai trong vương quốc của Người.
Qua lời loan báo của Giáo hội, chúng ta, giống như những mục đồng (x. Lc 2,9), được hướng dẫn tìm kiếm và tìm thấy ánh sáng đích thực, ánh sáng của Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành con người như chúng ta, tỏ mình ra một cách đáng kinh ngạc: “Một trẻ thơ mới sinh, bọc tã, đặt nằm trong máng có”. Thế giới không để ý đến điều gì, nhưng trên thiên đường, các thiên thần biết về điều đó và vui mừng! Ân sủng của Thiên Chúa “xuất hiện” nơi Chúa Giêsu, dung nhan của Thiên Chúa, Đấng mà Đức Trinh Nữ Maria đã sinh ra như mọi đứa trẻ trên thế giới này, nhưng là Đấng không đến “từ trái đất”, Người đến “từ Trời”, từ Thiên Chúa. Bằng cách này, với việc nhập thể của Chúa Con, Thiên Chúa đã mở đường cho chúng ta đến sự sống mới, không dựa trên sự ích kỷ nhưng trên tình yêu. Sự giáng sinh của Chúa Giêsu là cử chỉ yêu thương lớn lao nhất từ Chúa Cha.
Trong những ngày này chúng ta hãy mở rộng tâm trí để đón nhận ân sủng Giáng sinh. Chúa Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa dành cho chúng ta, và nếu chúng ta đón nhận Người, chúng ta cũng có thể trở nên một với Người – trở thành quà tặng của Thiên Chúa dành cho người khác.
Giáng Sinh Hy Vọng
Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương
Chúng ta đang sống trong bầu khí thánh thiêng của Năm Thánh Hy Vọng 2025; vì thế, Mùa Giáng Sinh năm nay mời gọi chúng ta hướng lòng về Đức Kitô – Nguồn Hy Vọng duy nhất của nhân loại. Nơi hang đá đơn sơ, Hài Nhi Giêsu mặc khải cho chúng ta niềm hy vọng giữa những thất vọng của đời người. Hy vọng ấy không đặt nơi của cải, quyền lực hay danh lợi chóng qua, nhưng đặt nơi chính Chúa, nơi Hài Nhi Giêsu – Hoàng Tử Hòa Bình, là ân ban hy vọng mà Thiên Chúa trao cho toàn thể nhân loại, như lời ca nhập lễ loan báo: “Một trẻ thơ chào đời để cứu ta, một người con được ban cho nhân loại, Người mang quyền bính ở trên vai, danh hiệu Người là Cố Vấn kỳ tài.”
- Vì sao thế giới hôm nay rất cần Giáng Sinh Hy Vọng?
Quả thật, chúng ta đang sống trong một thế giới đầy biến động và bất an. Chiến tranh, xung đột và chia rẽ không chỉ xảy ra giữa các dân tộc, mà còn len lỏi vào đời sống xã hội, cộng đồng và ngay cả trong các gia đình. Thiên tai và nhân tai liên tiếp xảy ra, gây nên những tổn thất nặng nề về người và của; động đất, núi lửa, lũ lụt, hạn hán vẫn không ngừng gieo rắc nỗi lo sợ cho con người.
Bên cạnh đó, những bất ổn về kinh tế và đạo đức xã hội cũng làm cho nhiều người lao đao: các chiêu trò lừa đảo tinh vi trên mạng xã hội, cờ bạc trá hình, “đào lửa”, tín dụng đen; nạn giả danh, tống tiền, bạo lực gia đình và học đường; sự xuống cấp trong môi trường giáo dục và y tế; thói quen đút lót, “bôi trơn” dần trở thành điều bình thường trong xã hội. Tất cả những thực trạng ấy khiến con người hôm nay chao đảo, mất phương hướng, đánh mất niềm tin vào cuộc sống, thậm chí rơi vào tuyệt vọng, dẫn đến những cái chết đau lòng và khó hiểu. Nhiều người, khi đối diện với áp lực và khủng hoảng, đã tìm đến những cuộc vui vô bổ, nghiện ngập, hưởng thụ để “xả stress”, nhưng càng chạy trốn thực tại, họ lại càng rơi sâu hơn vào sự trống rỗng và thất vọng.
Đứng trước thực trạng ấy, Giáng Sinh Hy Vọng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đối với chúng ta là những người có đức tin, Chúa mời gọi chúng ta đừng sợ hãi và đừng xao xuyến, bởi vì Thiên Chúa là nơi nương tựa và là nguồn cậy trông của chúng ta. Chính Đức Giêsu đã an ủi và khích lệ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14,1) Và hơn thế nữa, Ngài tha thiết mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28).
Chính vì thế, Giáng Sinh không chỉ là lễ kỷ niệm Chúa sinh ra, nhưng là lời mời gọi khẩn thiết hãy trở về với Nguồn Hy Vọng đích thực. Giữa một thế giới đầy bóng tối, chúng ta được mời gọi chạy đến với Hài Nhi Giêsu, Đấng đến không để xét xử, nhưng để ở cùng, chữa lành và nâng con người đứng dậy.
Vậy trong Giáng Sinh này, chúng ta tìm thấy niềm hy vọng nơi Hài Nhi Giêsu như thế nào? Và vì sao hôm nay chúng ta cần chạy đến với Ngài hơn bao giờ hết?
- Hài Nhi Giêsu mang lại hy vọng bằng cách nào?
Hài Nhi Giêsu chính là Thiên Chúa Ngôi Hai, vì yêu thương nhân loại tội lỗi và để xóa bỏ tội trần gian do Ađam cũ gây nên, đã chấp nhận hạ mình làm người trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Đây không phải là một hành động tình cờ, nhưng là sáng kiến yêu thương của Thiên Chúa, như Thánh Gioan khẳng định: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16)
Tình yêu đích thực không chỉ dừng lại ở lời nói hay sự thương hại từ xa. Khi thấy một người đang bị đuối nước, nếu thật lòng yêu thương, ta không chỉ đứng trên bờ ném chiếc phao, nhưng sẵn sàng lao mình xuống nước để cứu vớt người ấy. Cũng vậy, khi thấy con người đang quằn quại trong “vũng bùn êm ái” của tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa đã không đứng từ xa để xét xử hay kết án, nhưng đích thân sai Con Một của Người xuống thế làm người, nên giống con người mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, để cứu chuộc con người (x. Hr 4,15). Đó chính là Mầu nhiệm Nhập Thể – mầu nhiệm cao vời khôn ví của một Thiên Chúa Tình Yêu “ở cùng” nhân loại, để nâng con người từ thân phận nô lệ tội lỗi lên làm con cái Thiên Chúa (x. Ga 1,12).
Quả thật, Hài Nhi Giêsu không chỉ sinh ra nơi hang đá Bêlem, nhưng việc giáng sinh ấy mở ra một hành trình cứu độ đầy gian nan thử thách. Ngài đã đồng lao cộng khổ với kiếp người: Ngài nếm mùi nghèo khó khi chấp nhận sinh ra nơi máng cỏ đơn sơ; Ngài đau với nỗi đau của nhân loại; Ngài chịu sỉ nhục, bắt bớ, đánh đập, và cuối cùng chịu chết trên thập giá để đem lại sự sống và niềm hy vọng cho con người.
Nhưng thập giá không phải là tiếng nói cuối cùng. Sự Phục Sinh của Đức Giêsu chính là Niềm Hy Vọng cao độ nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại. Qua đó, Ngài khẳng định với chúng ta rằng: qua đau khổ sẽ đến vinh quang, qua thập giá sẽ đến khải hoàn, sự sống mạnh hơn sự chết. Thánh Phaolô đã xác tín điều ấy khi nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ không thể so sánh với vinh quang sắp được mặc khải nơi chúng ta.” (Rm 8,18)
Vì thế, là những người con cái của Chúa, chúng ta không né tránh gian nan, không sợ thử thách, nhưng đối diện với cuộc đời trong niềm cậy trông vững vàng. Chúng ta có thể vấp ngã, có thể đau khổ, nhưng không bao giờ được phép thất vọng, bởi vì Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết và tử thần. Khi chúng ta tin tưởng và cậy trông nơi Ngài, chúng ta không còn sống trong sợ hãi, nhưng bước đi trong niềm hy vọng và chiến thắng, vì: “Phần ta, trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8,37)
- Người Kitô hữu sống Giáng Sinh Hy Vọng ra sao?
Là những người con của Hài Nhi Giêsu, nhờ đức tin và Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã thuộc về Đức Kitô và được trở nên con cái của Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Hy Vọng duy nhất của nhân loại. Vì thế, chúng ta không chỉ đón nhận hy vọng cho riêng mình, nhưng còn được mời gọi trở nên chứng nhân của niềm hy vọng giữa đời.
Ý thức đó giúp chúng ta nhận ra rằng: mỗi Ki-tô hữu đều là một môn đệ thừa sai, được sai đi để làm chứng cho Tin Mừng giữa lòng thế giới hôm nay, đúng như lời mời gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong năm Mục Vụ 2026: mỗi người tín hữu hãy trở nên ánh sáng chiếu soi giữa trần gian (x. Mt 5,14).
Vì thế, giữa những thử thách, đau thương và bất ổn của con thuyền cuộc đời, của gia đình và xã hội, người Ki-tô hữu không sống trong sợ hãi hay buông xuôi, nhưng hiên ngang chèo chống, bởi vì chúng ta tin rằng Chúa đang ở cùng chúng ta: “Này đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20)
Ngoài ra, chúng ta có thể gặp bất công, đau khổ, nghèo đói và thiệt thòi, nhưng không bao giờ phải chiến đấu một mình. Sức mạnh của Chúa nâng đỡ chúng ta, giúp chúng ta vững vàng tiến bước, như lời Thánh Phaolô xác tín: “Tôi làm được mọi sự trong Đấng ban sức mạnh cho tôi.”(Pl 4,13)
Sống Giáng Sinh Hy Vọng cụ thể là: trở nên chứng nhân hy vọng nơi những môi trường lạnh lẽo, buồn phiền và thất vọng; trở nên ánh sáng bằng những việc lành phúc đức, bằng đời sống yêu thương, chia sẻ và phục vụ (x. Mt 5,16); dám bước ra khỏi mình, để cúi xuống với những người đói khát, bệnh tật, cô đơn và bị bỏ rơi. Hơn thế nữa, người Kitô hữu được mời gọi trở nên “Giêsu ở cùng” mọi hoàn cảnh, nhất là nơi những con người đau khổ và nghèo hèn, bởi vì chính nơi họ, chúng ta nhận ra hình ảnh của Hài Nhi Giêsu đang cần được yêu thương và chở che: “Ta bảo thật anh em: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta.” (Mt 25,40)
Khi chúng ta biết dừng lại, biết cúi xuống, biết chia sẻ và dấn thân, chúng ta đang gieo rắc tình thân ái và hy vọng của Thiên Chúa vào giữa đời. Nhờ đó, Giáng Sinh không chỉ là một ngày lễ, nhưng thực sự trở thành Giáng Sinh của niềm Hy Vọng, nơi mỗi người Kitô hữu trở thành dấu chỉ sống động của tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại hôm nay.
Nguồn: dcvphanxicoxavie.com
Nguồn: Giáo phận Hà Tĩnh